Những nỗ lực giảm nghèo ở Tuyên Quang
09:18 AM 31/10/2018 | Lượt xem: 5768 In bài viết |Qua hơn hai năm thực hiện Chương trình giảm nghèo giai đoạn 2016 - 2020, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh Tuyên Quang đã giảm được 8,49% (từ 27,81% đầu năm 2016 xuống còn 19,32% cuối năm 2017), tương đương 16.183 hộ gia đình đã thoát nghèo; tỷ lệ giảm hộ nghèo bình quân hằng năm đạt 4,25% (vượt chỉ tiêu Nghị quyết Ðại hội đại biểu Ðảng bộ tỉnh lần thứ 16 đề ra), trong đó, tỷ lệ giảm hộ nghèo bình quân ở các xã thuộc Chương trình 135 và vùng đồng bào dân tộc thiểu số đạt hơn 6%/năm, vượt mục tiêu Quốc hội, Chính phủ giao.
Theo kết quả điều tra hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2016 (theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020), tỉnh Tuyên Quang có 55.827 hộ nghèo, chiếm 27,81% và 18.050 hộ cận nghèo, chiếm 8,99%. Tỷ lệ hộ nghèo cao chủ yếu tập trung tại các huyện, xã vùng sâu, vùng xa, vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số. Các huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao là Lâm Bình 60,79%; Na Hang 50,08%. Một số xã có tỷ lệ hộ nghèo rất cao như: Xuân Lập, Phúc Yên, Hồng Quang (huyện Lâm Bình); Sinh Long (huyện Na Hang) hơn 80%.
Nguyên nhân khách quan do vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên chung của tỉnh không thuận lợi; địa hình các huyện vùng cao, các xã đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa chia cắt, nhiều hộ nghèo, cận nghèo còn thiếu đất sản xuất, thiếu vốn, thiếu phương tiện sản xuất, một số hộ nghèo do trong gia đình có người ốm đau thường xuyên, tàn tật, già cả, có người mắc tệ nạn xã hội. Bên cạnh đó, nguyên nhân chủ quan cũng được xác định là do các hộ nghèo, cận nghèo chưa có ý thức nỗ lực, cố gắng vươn lên, trình độ sản xuất, thâm canh còn hạn chế, chưa chủ động tiếp cận và ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao chất lượng, hiệu quả giống cây trồng, vật nuôi, mặc dù thiếu vốn nhưng chưa dám mạnh dạn vay vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh, chuyển đổi ngành nghề. Một số hộ nghèo còn lười lao động, trông chờ, ỷ lại vào chính sách hỗ trợ của Nhà nước và sự giúp đỡ của cộng đồng.
Trước thực trạng đó, Tỉnh ủy đã ban hành nghị quyết chuyên đề lãnh đạo công tác giảm nghèo đến năm 2020. Kiện toàn Ban Chỉ đạo thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016-2020, ban hành quy chế hoạt động của ban chỉ đạo, phân công rõ chức năng, nhiệm vụ phụ trách, chỉ đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện các dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững và các chính sách giảm nghèo chung. UBND tỉnh phê duyệt, ban hành các quyết định giao chỉ tiêu, kế hoạch giảm tỷ lệ hộ nghèo, phân bổ, giao kế hoạch vốn thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững; đồng thời ban hành nhiều văn bản chỉ đạo các cấp, ngành trong tỉnh triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp, trong đó chú trọng hỗ trợ giảm nghèo đối với các vùng đặc biệt khó khăn, gắn với xây dựng nông thôn mới; chỉ đạo các ngành, địa phương trong tỉnh tập trung huy động nguồn lực, lồng ghép các nguồn lực thực hiện các chính sách hỗ trợ giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội, như: hỗ trợ lãi suất tiền vay để các hộ tổ chức nuôi, trồng một số loại cây, con có giá trị kinh tế, có tiềm năng, lợi thế trên địa bàn tỉnh theo hướng sản xuất hàng hóa và chính sách hỗ trợ hộ nghèo phát triển chăn nuôi kết hợp xây hầm, bể bi-ô-ga bảo vệ môi trường.
Tỉnh tiếp tục ban hành một số chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho người dân và hộ nghèo, trong đó tập trung vào việc phát triển cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, gắn sản xuất nông nghiệp với sản xuất hàng hóa. Tập trung giải quyết nguồn vốn cho hộ nghèo, ngân sách tỉnh, các huyện và thành phố đã bố trí 18,45 tỷ đồng ủy thác cho Ngân hàng Chính sách xã hội để cho vay đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn tỉnh, đưa tổng nguồn vốn tín dụng ưu đãi lên hơn 2.478 tỷ đồng. Trong đó, vốn trung ương gần 2.244 tỷ đồng; vốn ngân sách địa phương hơn 30 tỷ đồng, còn lại là các nguồn vốn khác hơn 204 tỷ đồng. Qua đó, đã cho gần 40 nghìn hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, hộ dân tộc thiểu số có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn vay vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh, làm nhà ở.
Huy động đa dạng các nguồn lực đầu tư, hỗ trợ từ các nguồn vốn, các chương trình, dự án để lồng ghép thực hiện các biện pháp hỗ trợ phát triển sản xuất hàng hóa, sản xuất cây vụ đông, miễn thủy lợi phí, trợ giá giống; hỗ trợ giống lúa lai, ngô lai cho các hộ nghèo ở các xã, thôn đặc biệt khó khăn thuộc Chương trình 135; sắp xếp, ổn định dân cư; hỗ trợ trồng rừng sản xuất; hỗ trợ vắc-xin và công tiêm phòng bệnh cho gia súc; hỗ trợ xây hầm bi-ô-ga bằng vật liệu nhựa com-pô-dít; xây dựng công trình vệ sinh và chuồng, trại chăn nuôi; khuyến khích phát triển tiểu thủ công nghiệp và làng nghề; khuyến khích phát triển hợp tác xã, kinh tế trang trại, doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; phát triển công nghệ tưới tiên tiến, tiết kiệm nước cho cây trồng trên cạn; hỗ trợ giống cây lâm nghiệp chất lượng cao; triển khai tốt các chương trình khuyến nông, khuyến lâm.
Tỉnh cũng đã tổ chức tập huấn kỹ thuật sản xuất cho 101.765 lượt hộ nghèo, cận nghèo; thực hiện 365 mô hình trình diễn áp dụng các giống mới, kỹ thuật mới với hơn 12.300 hộ tham gia (trong đó có hơn 2.000 hộ nghèo). Từ năm 2016 đến nay, đã có 5.382 hộ được hỗ trợ nhận khoán bảo vệ rừng với kinh phí hỗ trợ hơn 45 tỷ đồng và 5.061 hộ được hỗ trợ bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh rừng với tổng kinh phí 7,6 tỷ đồng; 480 hộ được hỗ trợ trồng, chăm sóc rừng phòng hộ với tổng kinh phí hơn tám tỷ đồng.
Toàn tỉnh đã đầu tư xây dựng, sửa chữa, nâng cấp 126 công trình thủy lợi (hồ chứa, phai, đập), kinh phí hơn 140 tỷ đồng; hoàn thành xây dựng mới hơn 393 km kênh mương bằng bê-tông đúc sẵn, với tổng kinh phí hơn 280 tỷ đồng, nâng tổng số kênh, mương thủy lợi phục vụ tưới, tiêu lên 2.341 km.
Từ những nỗ lực đó, tỷ lệ hộ nghèo chung ở tỉnh đã giảm 8,49% (từ 27,81% đầu năm 2016 xuống còn 19,32% cuối năm 2017); bình quân giảm 4,25%/năm. Dự kiến đến hết năm 2018, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 15,83%. Trong ba năm, tỷ lệ hộ nghèo ước giảm 11,98%, bình quân giảm 3,99%/năm, đạt 74,88% kế hoạch. Trong đó, tỷ lệ hộ nghèo của huyện nghèo Lâm Bình giảm 15,04%, bình quân giảm 7,52%/năm. Tỷ lệ hộ nghèo ở các xã thuộc Chương trình 135 giảm 12,41%, bình quân giảm 6,21%/năm. Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm 12,75%. Hộ nghèo thuộc diện chính sách người có công với cách mạng trên toàn tỉnh giảm từ 317 hộ đầu năm 2016 xuống còn 151 hộ cuối năm 2017.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được vẫn còn những hạn chế: chất lượng giảm nghèo chưa vững chắc, tỷ lệ hộ nghèo là người dân tộc thiểu số và hộ nghèo ở các xã 135 còn cao; số hộ cận nghèo có xu hướng gia tăng; điều kiện sản xuất, đời sống của nhiều hộ dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn khó khăn. Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế nêu trên là do một số cấp ủy, chính quyền chưa sâu sát, quyết liệt trong lãnh đạo; tổ chức thực hiện chưa cụ thể và hiệu quả, có nơi còn mang tính hình thức. Việc rà soát, đánh giá hộ nghèo, hộ cận nghèo ở một số nơi còn lúng túng; việc xác định nguyên nhân chưa chính xác dẫn đến việc đưa ra các giải pháp giảm nghèo chưa đúng và trúng, chưa phù hợp từng đối tượng và điều kiện của địa phương. Việc huy động nguồn lực cho công tác giảm nghèo còn khó khăn; chưa khai thác, phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, từng địa phương để phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập cho người dân.
Vai trò của MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội và cộng đồng trong thực hiện công tác giảm nghèo ở một số nơi còn hạn chế; cách thức tổ chức sản xuất, đời sống và chi tiêu của nhiều hộ nghèo chưa hợp lý; ý thức, trách nhiệm tự vươn lên thoát nghèo của một bộ phận hộ nghèo còn thấp, còn tư tưởng ỷ lại, không muốn thoát nghèo.
Tổ chức hội nghị đầu bờ hướng dẫn người dân kỹ thuật trồng ngô lai ở xã Thượng Nông (huyện Na Hang).
Để sớm khắc phục những khó khăn, hạn chế đó, phấn đấu hoàn thành mục tiêu đến năm 2020 tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh giảm xuống khoảng 10%; không còn hộ nghèo thuộc đối tượng hộ chính sách, người có công với cách mạng, tỉnh Tuyên Quang đã chỉ đạo tiếp tục phát huy cao hơn nữa trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền và cộng đồng trong công tác giảm nghèo, coi công tác giảm nghèo là nhiệm vụ trọng tâm, lấy kết quả giảm nghèo là chỉ tiêu để đánh giá tập thể và cá nhân hằng năm.
Ðổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác giảm nghèo đến toàn thể cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân; tạo sự đồng thuận và phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, sự tham gia của toàn xã hội trong triển khai thực hiện công tác giảm nghèo. Tổ chức thực hiện tốt phong trào thi đua "Cả nước chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau". Chú trọng các biện pháp tuyên truyền, vận động để các hộ nghèo nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm của bản thân vừa là chủ thể, vừa là đối tượng được hưởng lợi từ chương trình giảm nghèo, từ đó chủ động, nỗ lực vươn lên trong phát triển kinh tế, sử dụng có hiệu quả nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước, tranh thủ sự hướng dẫn, giúp đỡ của chính quyền, đoàn thể và cộng đồng để vươn lên thoát nghèo bền vững; không trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ, giúp đỡ từ bên ngoài.
Rà soát chính xác nguyên nhân hộ nghèo, cận nghèo, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch và đề ra giải pháp giảm nghèo xác thực, phù hợp, hiệu quả, theo đúng nguyên nhân; phân công các tổ chức, cá nhân theo dõi, giúp đỡ từng hộ với những việc làm cụ thể, thiết thực, hiệu quả. Bố trí và sử dụng nguồn lực cho công tác giảm nghèo phải được thực hiện công khai, minh bạch, có trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải, bảo đảm sự tham gia chủ động, tích cực của người dân.
Huy động nguồn lực của toàn xã hội chăm lo cho công tác giảm nghèo theo phương châm: Nhà nước tạo điều kiện về sinh kế, cộng đồng hỗ trợ còn bản thân người nghèo tự nỗ lực vươn lên thoát nghèo. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất; đa dạng hóa các hình thức tạo sinh kế cho người nghèo, tạo điều kiện cho người nghèo được tiếp cận các chính sách, nguồn lực, thị trường... Nâng cao vai trò của các tổ chức hợp tác xã, tổ hợp tác, tổ tiết kiệm và vay vốn trong thực hiện việc liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm giữa hộ nghèo, cận nghèo với doanh nghiệp.
Khuyến khích thành lập các hợp tác xã, các tổ hợp tác; thu hút các doanh nghiệp về vùng nông thôn liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm cho người nông dân. Chỉ đạo các doanh nghiệp đầu tư vào tỉnh cam kết sử dụng một tỷ lệ nhất định lao động địa phương thuộc hộ nghèo.
(nhandan.com.vn)