Tên tự gọi: Kabeo.
Tên gọi khác: La Quả, Penti Lô Lô.
Dân số: 903 người (Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 01/4/2019).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm Ka Ðai (ngữ hệ Thái - Ka Ðai). Người Pu Péo nói giỏi tiếng Hmông, Quan hoả.
Lịch sử: Họ đã từng sinh sống lâu đời ở miền cực bắc Việt Nam. Các dân tộc láng giềng đều thừa nhận người Pu Péo là một trong những cư dân khai khẩn ruộng nương đầu tiên ở vùng cực bắc.
Hoạt động sản xuất: Người Pu Péo chuyên trồng ngô, đậu trên nương với kỹ thuật cao, như cày nương, bón phân và trồng xen canh gối vụ. Một số trồng lúa trên ruộng bậc thang. Họ sử dụng trâu bò làm sức kéo. Có người làm nghề ngói máng, mộc.
Ăn: Bột ngô đồ, canh là 2 món ăn chính của người Pu Péo. Họ dùng thìa để húp canh.
Chiếc váy của người phụ nữ Pu Péo đẹp bởi cách trang trí ở dưới gấu bằng những mép vải màu hình vuông, tam giác cắt đắp thành dải. Cách vấn tóc thành búi ở trán và cài bằng chiếc lược gỗ là một đặc trưng văn hoá Pu Péo. |
Mặc: Váy và áo phụ nữ rất đặc sắc, chỉ sử dụng kỹ thuật đắp vải màu. áo mặc hai lớp. áo ngoài xẻ ngực, không khuy cài, xung quanh gấu và hò áo được trang trí bằng cách đắp những miếng vải khác màu xếp thành hình tam giác, hình vuông hay hình quả trám; cổ tay áo viền những khoanh vải khác màu. áo ngắn mặc trong, cài khuy bên nách phải cũng được trang trí bằng vải màu như áo trong. Tóc của phụ nữ vấn trước trán gài lại bằng chiếc lược gỗ, phủ khăn vuông.
Ở: Người Pu Péo định cư ở huyện Ðồng Văn, tỉnh Hà Giang. Xưa kia họ ở nhà sàn, nay ở nhà trệt. Nhà trình tường hay chỉ là ván bưng, lợp ngói máng hoặc cỏ gianh.
Phương tiện vận chuyển: Phổ biến dùng gùi đeo lưng.
Các quan hệ xã hội: Người Pu Péo tồn tại song song hai loại dòng họ. Một loại gọi theo tên bằng chữ Hán, đọc theo cách phiên âm của địa phương như Củng, Tráng, Phù... được sử dụng chính thức trong các giấy tờ. Một loại họ khác cổ hơn, thể hiện mối dây liên lạc máu mủ giữa các thành viên của dòng họ, mỗi dòng họ như thế thường gồm một cặp như Kacung - Kacăm, Karảm - Kachâm, Karu - Karựa, Ka bu - Ka bởng.
Cưới xin: Cưới xin có nhiều bước. Hôm đón dâu, phù dâu phải cõng cô dâu ra khỏi cổng để theo đoàn nhà trai về. Trong bữa cơm cúng tổ tiên, thức ăn để trên nong, cả nhà cùng dâu rể phải ăn bốc. Lễ lại mặt tiến hành nhiều lần, sau ngày cưới 3,7, 13, 30 ngày.
Sinh đẻ: Quan niệm phổ biến về ảnh hưởng to lớn của bà mụ tới con trẻ từ thai nhi cho đến tuổi 13. Sản phụ đẻ trong căn buồng riêng của mình. Nhau đẻ chôn trong ống tre dưới gầm giường hoặc bọc vào chiếu cũ để lên cành cây trên rừng. Con trai đặt tên sau 5 ngày. Trong thời gian chưa đặt tên cho con, bố chỉ được quanh quẩn trong nhà, ra khỏi nhà phải đội nón. Tên này được dùng cho đến 13 tuổi, sau đó đặt tên theo tiếng Quan hoả cùng với tên đệm chung, như họ Củng có 18 tên đệm, họ Tráng 7 tên.
Ma chay: Có lễ làm ma và lễ làm chay hay còn gọi là ma khô. Khi bố mẹ chết, người ta đặt nghiêng hũ thờ trên bàn thờ tổ tiên biết cho tổ tiên biết có người chết và chậm nhất 13 ngày sau khi chôn phải làm lễ dựng lại hũ thờ này. Trong những ngày còn quàn trong nhà, cơm nước không được nấu ở bếp chính mà kê đá làm bếp ở gian giữa nhà. Mỗi bài cúng của thầy cúng đều có nội dung riêng liên quan đến nhiều truyền thuyết lịch sử của người Pu Péo, đưa hồn về quê cũ. Người ta cắm Ta leo trước cửa ngăn ma vào nhà, sau khi khiêng quan tài ra khỏi cửa và đốt lửa ngoài sân đun nước rửa chân tay trước khi vào nhà, sau lễ đưa đám.
Tin vào sự tái sinh của người chết, sáng hôm sau khi chôn người chết, gia đình xem vết chân trên lớp tro rắc rối trước cửa nhà.
Vài năm sau, gia đình sẽ tổ chức làm chay để cúng đưa hồn người chết về quê cũ. Trong lễ này người Pu Péo còn bảo lưu hai phong tục cổ là uống rượu cần và đánh trống đồng.
Thờ cúng: Họ tin mỗi người có 8 hồn, chín vía. Ðêm 30 tết Nguyên đán các gia đình đều làm lễ gọi hồn cho từng thành viên trong nhà. Thờ tổ tiên 3 đời. Trên bàn thờ có những hũ sành nhỏ tượng trưng cho đối tượng thờ, ít nhất 3 hũ cho 3 đời. Mỗi khi thành viên nào đó trong gia đình ốm đau thầy bói sẽ bói và cho biết cần phải thờ ai để có thêm một hũ thờ nữa đặt lên bàn thờ.
Lễ tết: Tết Nguyên đán, đêm 29 gói và nấu bánh chưng đen tiễn năm cũ và đêm 30 gói và nấu bánh chưng trắng mừng năm mới, cúng tổ tiên. Sáng mồng một tết nam nữ đi gánh nước vàng nước bạc lấy lộc. Trong 3 ngày tết sau bữa cơm không được rửa bát, mỗi lần đến bữa chỉ dùng giấy lau sạch với mong muốn không có mưa quá to sẽ trôi hết đất mầu.
Lịch: Sử dụng lịch 12 con vật, khớp với âm lịch.
Văn nghệ: Hát đám cưới xin dâu giữa nhà trai và nhà gái suốt 3-4 giờ trở thành một sinh hoạt văn nghệ rất độc đáo. Ðám cưới là dịp để trai gái ca hát, vui chơi.
(Bức tranh Văn hóa các Dân tộc Việt Nam - NXB Giáo dục)