Chương trình 135 giai đoạn III: Cơ hội đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn vùng dân tộc, miền núi
08:43 AM 27/04/2013 | Lượt xem: 7371 In bài viết |Bên lề Hội nghị toàn quốc đánh giá và triển khai thực hiện chính sách vùng dân tộc và miền núi, triển khai Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình 135 về hỗ trợ phát triển sản xuất cho các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu, các thôn, bản đặc biệt khó khăn (gọi tắt là Chương trình 135 giai đoạn III), Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Sơn Phước Hoan đã dành thời gian trả lời phỏng vấn về mục đích, ý nghĩa, những điểm mới trong đầu tư và cơ chế thực hiện Chương trình 135 giai đoạn III. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!
- PV: Kính chào Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm! Xin cảm ơn Thứ
trưởng, Phó Chủ nhiệm đã dành thời gian trả lời phỏng vấn. Trước hết, đề nghị
Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm cho biết ý nghĩa của việc Thủ tướng Chính phủ đã phê
duyệt Chương trình 135 đối với phát triển kinh tế-xã hội, giảm nghèo tại các xã,
thôn, bản đặc biệt khó khăn vùng dân tộc và miền núi?
- Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Sơn Phước Hoan:
Cần phải khẳng định Chương trình 135 là một “thương hiệu” rất thân thuộc với cấp
uỷ, chính quyền và đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng dân tộc và miền núi. Qua 2
giai đoạn đầu tư (1998-2010), Chương trình 135 đã chứng minh vị thế là một
chương trình giảm nghèo lớn và quan trọng nhất, hỗ trợ hiệu quả đối với phát
triển kinh tế-xã hội vùng đặc biệt khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa và biên
giới. Kết quả của Chương trình đã góp phần đưa Việt Nam vào danh sách những quốc
gia thành công nhất trên thế giới về giảm nghèo và phát triển kinh tế trong 2
thập kỷ vừa qua.
Chương trình đã làm thay đổi diện mạo vùng miền núi, dân tộc đặc biệt khó khăn;
đời sống của đồng bào từng bước được cải thiện; tỷ lệ đói nghèo giảm nhanh (bình
quân 3,6%/năm); trình độ dân trí và năng lực quản lý, điều hành của hệ thống
chính trị các cấp, nhất là chính quyền cấp xã được nâng lên, dần đáp ứng công
tác quản lý, điều hành phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn các xã đặc biệt
khó khăn; tập quán và kỹ thuật sản xuất của đồng bào dân tộc có sự chuyển biến
theo hướng sản xuất hàng hoá; tỷ lệ thôn, bản có điện, đường, lớp học, nhà văn
hoá, y tế thôn, công trình thuỷ lợi tăng lên; khối đại đoàn kết các dân tộc được
tăng cường; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Thành tựu mà Chương trình 135 giai đoạn I, II đã đạt được rất to lớn, song hiện
nay, khoảng cách phát triển giữa vùng dân tộc và miền núi với các vùng khác
trong cả nước vẫn còn chênh lệch khá xa. Thu nhập bình quân đầu người toàn vùng
chỉ bằng 1/3 thu nhập bình quân chung của khu vực nông thôn. Tỷ lệ nghèo các xã,
thôn bản là 45%, nhiều xã lên tới 70-80%, khoảng 900.000 hộ ở mức cận nghèo.
Theo khảo sát của Uỷ ban Dân tộc tại 50 tỉnh, 356 huyện, 1.848 xã đặc biệt khó
khăn, xã biên giới, xã an toàn khu cho thấy hiện còn: 149 xã chưa có đường ô tô
đến trung tâm xã, 67,2% thôn, bản chưa có đường trục giao thông được cứng hoá;
3.150 công trình thuỷ lợi cần được đầu tư; 202 xã chưa có điện đến trung tâm,
8.100 thôn, bản (38,6%) chưa được sử dụng điện; 32,2% số hộ chưa có nước sinh
hoạt hợp vệ sinh….; trên 218 ngàn cán bộ cấp xã, thôn bản cần được tập huấn nâng
cao kiến thức; trên 400 ngàn hộ có nhu cầu được đào tạo, tập huấn kiến thức làm
ăn. Thống kê năm 2012 của các địa phương cũng chỉ ra có khoảng 120.000 hộ nghèo,
bằng 660 ngàn khẩu thuộc các thôn bản giáp biên chưa tự túc được lương thực…Từ
những khó khăn về kinh tế - xã hội, cùng với trình độ phát triển còn hạn chế ở
khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số nên các thế lực thù địch đã lợi
dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng để tuyên truyền chống phá Đảng,
chống phá Nhà nước tạo ra một số điểm nóng về an ninh, chính trị ở khu vực Tây
Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ
Từ những vấn đề trên, tôi cho rằng, quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Chương trình 135 là cơ hội lớn để giải quyết những nhu cầu bức thiết đang đặt ra
ở vùng dân tộc và miền núi, nhất là địa bàn đặc biệt khó khăn. Ở góc độ nhất
định, có thể coi Chương trình 135 là Chương trình "xương sống" của chính sách
dân tộc, góp phần xoá đói giảm nghèo, ổn định đời sống dân cư. Tổ chức thực hiện
Chương trình là cơ hội giúp đồng bào nghèo vùng dân tộc và miền núi thoát nghèo
nhanh và bền vững, thể hiện sự nhất quán và liên tục trong chính sách, góp phần
củng cố niềm tin của đồng bào với Đảng và Nhà nước.
- PV: Chương trình 135 giai đoạn I (1998-2006) tập trung đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng cho các xã đặc biệt khó khăn; giai đoạn II (2006-2010) đã chuyển
hướng đầu tư về xã, thôn đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa và biên
giới. Sang giai đoạn này tiếp tục đầu tư tới xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn
vùng dân tộc và miền núi. Như vậy, có thể hiểu Chương trình 135 được thiết kế
theo hướng đầu tư trực tiếp xuống người dân được không, thưa Thứ trưởng, Phó Chủ
nhiệm?
- Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Sơn Phước Hoan:
Đảng và Chính phủ đã nhìn nhận: Xoá đói giảm nghèo, nâng cao trình độ, nhận thức
cho đồng bào dân tộc thiểu số là nhiệm vụ lâu dài, trọng tâm để đồng bào có đủ
“sức đề kháng” chống lại các yếu tố bất lợi về điều kiện tự nhiên, khó khăn về
kinh tế-xã hội nhằm từng bước phát huy nội lực, vươn lên phát triển bền vững.
Vừa qua, Uỷ ban Dân tộc phối hợp với Quỹ Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) đã
công bố Báo cáo Tác động của Chương trình 135 giai đoạn II qua lăng kính hai
cuộc điều tra đầu kỳ và cuối kỳ. Báo cáo chỉ ra rằng tỷ lệ nghèo ở đồng bào dân
tộc thiểu số đã giảm nhưng vẫn còn cao. Mức sống của các hộ chưa thoát nghèo
không được cải thiện nhiều; mức tăng thu nhập có xu hướng giảm theo thời gian;
kết quả giảm nghèo chưa bền vững, tỷ lệ các hộ nghèo tạm thời là khá lớn…
Dựa vào kết quả tổng kết và kết quả khảo sát, đánh giá thực hiện Chương trình
135 giai đoạn II, ý kiến đề nghị của các địa phương thụ hưởng Chương trình, ý
kiến cử tri tại các kỳ họp Quốc hội, giai đoạn III, Chương trình 135 đã được
thiết kế đầu tư xuống cấp xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, tức là xuống đến tận
người dân. Nội hàm của Chương trình cũng có sự thay đổi so với hai giai đoạn
trước, không chỉ bao gồm đầu tư, hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội mà còn tập
trung vào giảm nghèo ở các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn trên quan điểm tiếp
tục đầu tư, hỗ trợ đủ lớn để địa bàn này đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế-xã
hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá, chuyển dịch cơ cấu
lao động, tăng thu nhập, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
đồng bào các dân tộc; giảm chênh lệch về khoảng cách phát triển giữa các dân tộc
và các vùng trong cả nước theo tinh thần Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011
của Chính phủ về Định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ 2011-2020.
- PV: Có thể thấy rằng, hiện đang có rất nhiều nhu cầu bức thiết đặt ra ở
vùng dân tộc và miền núi nói chung, vùng đặc biệt khó khăn nói riêng. Vậy nội
dung của Chương trình 135 giai đoạn này sẽ tập trung ưu tiên giải quyết những
vấn đề gì, thưa Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm?
- Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Sơn Phước Hoan:
Chương trình 135 được phê duyệt thực hiện trong giai đoạn 2012-2015 và giai đoạn
2016-2020, xây dựng theo cơ chế rút gọn, tập trung ưu tiên đầu tư, hỗ trợ 2 nội
dung: Hỗ trợ cơ sở hạ tầng và Hỗ trợ phát triển sản xuất.
Trong đó, về Hỗ trợ phát triển sản xuất gồm một số nội dung chính như: Bổ sung
và nâng cao kiến thức phát triển kinh tế hộ gia đình, áp dụng các tiến bộ khoa
học vào sản xuất, tiếp cận tín dụng, thông tin thị trường, sử dụng đất đai hiệu
quả; Hỗ trợ giống, phân bón, vật tư phục vụ chuyển đổi cây trồng, vật nuôi có
giá trị kinh tế; Hỗ trợ làm chuồng trại chăn nuôi, cải tạo diện tích nuôi trồng
thủy sản; Hỗ trợ vắc xin tiêm phòng các dịch bệnh nguy hiểm cho gia súc, gia
cầm; Hỗ trợ xây dựng mô hình phát triển sản xuất, tạo điều kiện cho người dân
tham quan, học tập, nhân rộng mô hình; Hỗ trợ nâng cao năng lực cho đội ngũ cán
bộ chỉ đạo hỗ trợ phát triển sản xuất, cán bộ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến
ngư; dịch vụ bảo vệ thực vật, thú y; vệ sinh an toàn thực phẩm.
Xây dựng cơ sở hạ tầng: Hoàn thiện hệ thống đường giao thông nông thôn phục vụ
sản xuất, kinh doanh và dân sinh; Hoàn thiện hệ thống các công trình bảo đảm
cung cấp điện phục vụ sinh hoạt và sản xuất, kinh doanh; Hoàn thiện hệ thống các
công trình phục vụ nhu cầu về hoạt động văn hóa trên địa bàn xã gồm: Trạm chuyển
tiếp phát thanh xã; nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng đồng ở xã, thôn, bản; Hoàn
thiện các công trình để bảo đảm chuẩn hóa trạm y tế xã; Hoàn thiện hệ thống các
công trình để bảo đảm chuẩn hóa giáo dục trên địa bàn xã; xây dựng lớp tiểu học,
mẫu giáo, nhà trẻ, nhà ở giáo viên, trang bị bàn ghế, điện, nước sinh hoạt, công
trình phụ trên địa bàn thôn, bản; Cải tạo, xây mới hệ thống thủy lợi trên địa
bàn xã, thôn, bản; Các công trình hạ tầng quy mô nhỏ khác do cộng đồng đề xuất
phù hợp với phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số; Duy tu, bảo dưỡng
các công trình hạ tầng cơ sở.
- PV: Với những nội dung như vậy thì định mức đầu tư, hỗ trợ của Chương trình
135 cũng như cơ chế phân bổ vốn đầu tư sẽ như thế nào? Thưa Thứ trưởng, Phó Chủ
nhiệm!
- Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Sơn Phước Hoan:
Năm 2012 và 2013 thực hiện theo định mức và vốn đã được phân bổ;
Năm 2014 và 2015, tăng 1,5 lần so với định mức vốn năm 2013; các năm tiếp theo
được bố trí tăng phù hợp với khả năng ngân sách nhà nước.
Cơ chế phân bổ vốn đầu tư có điểm mới là các địa phương căn cứ vào điều kiện
thực tế về vị trí địa lý, diện tích, dân số, số thôn bản, số hộ nghèo, kết cấu
hạ tầng, điều kiện sản xuất, trình độ cán bộ cơ sở… tiến hành phân loại các xã
thuộc diện đầu tư của Chương trình thành 3 loại: Xã loại III là xã có điều kiện
khó khăn nhất trong các xã đặc biệt khó khăn của tỉnh; xã loại II là xã có điều
kiện khó khăn ở mức trung bình so với xã đặc biệt khó khăn của tỉnh; xã loại I
là các xã còn lại. Trên cơ sở phân loại xã và vốn phân bổ của Trung ương, các
địa phương xây dựng hệ số K để phân bổ vốn theo nguyên tắc xã khó khăn hơn được
phân bổ vốn cao hơn.
- PV: Đề nghị Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm cho biết trách nhiệm của Uỷ ban Dân
tộc trong thực hiện Chương trình 135 giai đoạn III?
- Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Sơn Phước Hoan:
Ở hai giai đoạn trước của Chương trình 135, Uỷ ban Dân tộc được Chính phủ giao
là Cơ quan Thường trực, giúp Ban Chỉ đạo Trung ương chỉ đạo, quản lý, triển khai
tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của Chương trình. Uỷ ban Dân tộc đã hoàn thành
tốt nhiệm vụ này thể hiện qua việc cộng đồng quốc tế, nhất là các nhà tài trợ
ngân sách cho Chương trình đều đánh giá Chương trình 135 là Chương trình giảm
nghèo toàn diện nhất, hiệu quả nhất, đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch, ít
thất thoát nhất. Hiện nay, cơ chế, chính sách và cách thức tổ chức thực hiện của
Chương trình đã và đang được Ngân hàng Thế giới và một số tổ chức quốc tế khác
áp dụng cho các dự án tại một số tỉnh.
Giai đoạn tiếp theo của Chương trình 135, Uỷ ban Dân tộc tiếp tục được Chính phủ
giao là cơ quan chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện các nội dung của Chương
trình. Đây là vinh dự lớn nhưng cũng là trách nhiệm nặng nề. Để thực hiện nhiệm
vụ được Chính phủ giao, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc thành lập Văn phòng
Điều phối để quản lý, chỉ đạo thực hiện Chương trình. Bên cạnh đó, chủ trì, phối
hợp với các Bộ, ngành liên quan hướng dẫn cơ chế quản lý, tổ chức thực hiện; xây
dựng kế hoạch vốn để thực hiện Chương trình 135; nghiên cứu, xây dựng các mô
hình, cách làm mới để góp phần nâng cao hiệu quả của Chương trình; Rà soát, xác
định danh sách xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn; tổng hợp, trình Thủ tướng Chính
phủ quyết định danh sách xã. Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc quyết định
danh sách thôn, bản đặc biệt khó khăn vào diện đầu tư của Chương trình 135; Xây
dựng tiêu chí xã, thôn hoàn thành mục tiêu Chương trình 135; Hướng dẫn, chỉ đạo
các địa phương hàng năm bình xét xã, thôn, bản đủ tiêu chí hoàn thành mục tiêu,
lập danh sách, tổng hợp, trình cấp thẩm quyền xem xét quyết định; Đề xuất hình
thức biểu dương, khen thưởng các địa phương có nhiều thành tích trong quản lý
chỉ đạo, tổ chức thực hiện, nhất là các địa phương có nhiều xã, thôn, bản sớm
hoàn thành mục tiêu Chương trình 135; Vận động, các doanh nghiệp, tổ chức Quốc
tế, các đối tác phát triển nhằm vay vốn, hỗ trợ vốn, hỗ trợ tư vấn kỹ thuật cho
Chương trình…
Tôi tin tưởng bằng kinh nghiệm chỉ đạo, quản lý, tổ chức thực hiện Chương trình
cùng trách nhiệm, tình cảm, tâm huyết với cộng đồng các dân tộc thiểu số, Uỷ ban
Dân tộc sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ được Chính phủ giao.
- PV: Xin trân trọng cảm ơn Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm đã trả lời phỏng vấn.
Thực hiện: Quang Hải – Phương Liên