Thông tin giá cả thị trường số ra ngày 02/10/2015

03:14 PM 03/10/2015 |   Lượt xem: 2705 |   In bài viết | 

TIÊU ĐIỂM


Nông sản “gánh” hơn 1.000 loại phí

Nông sản Việt chủ yếu xuất thô, trong khi ngay ở thị trường nội địa cũng hết sức chật vật vì cạnh tranh không lại với hàng Trung Quốc. Một trong những nguyên nhân là do nông sản đang gánh trên mình hơn 1.000 khoản phí và lệ phí khiến giá bán bị đẩy lên cao và giảm đáng kể sức cạnh tranh của sản phẩm.

Phí nhiều, khiến giá nông sản tăng cao

So với một số quốc gia trong khu vực, giá nông sản Việt thường cao hơn từ 20% đến 50%, có khi cao gấp đôi hoặc hơn gấp đôi. Một trong những lý do để giá nông sản luôn cao là do trong sản xuất, người nông dân phải gánh quá nhiều khoản đóng góp. Theo điều tra mới đây của Viện Thị trường và giá cả (Bộ Tài chính), một hạt thóc nông dân sản xuất ra phải cõng hơn 100 khoản đóng góp. Cùng với giá cả vật tư “leo thang”, các khoản phí này tăng thêm “đầu vào” khiến giá cả nông sản tăng cao. Các khoản phí quá nhiều và quá cao nên ngay cả những năm được mùa, một hộ nông dân khi bán hết lúa, mỗi sào thu về 1,5 triệu đồng, sau khi trừ chi phí chỉ còn lãi 100.000 đồng. Nửa năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” thu về được số tiền ít như vậy bà con sẽ chi tiêu thế nào, chưa kể những năm thiên tai, mất mùa? Chính vì điều đó, không ít nông dân đã phải cho thuê ruộng, khi không ai thuê nữa thì bỏ ruộng. Mới đây, theo kết luận của Thanh tra Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công ty TNHH MTV Cà phê Ea Ktur đã thu của người nhận khoán 17 khoản mục giá thành đối với diện tích vườn cây của công ty như: Khấu hao vườn cây, khấu hao tài sản cố định khác, thuế, chi phí quản lý, bảo hiểm sản xuất, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chi phí lao động, vật tư phân bón, dịch vụ tưới, khấu hao máy nông nghiệp nhỏ, dụng cụ sản xuất, bảo hộ lao động, nghỉ phép cán bộ… Đối với diện tích người dân tự đầu tư trồng, chăm sóc, công ty thu một số khoản như: Chi phí khảo sát, thiết kế khai hoang, nhà cửa các đội và công ty, máy móc thiết bị, sân phơi, kho chứa sản phẩm với tổng số tiền hơn 1,1 triệu đồng và hơn 4,2 triệu đồng tiền chi phí quản lý/héc-ta/năm. Với kiểu “tận thu” này, quả thật, người nông dân trồng cà phê dù quần quật quanh năm mới làm ra hạt cà phê, nhưng đến mùa thu hoạch, sau khi trừ chi phí, nộp các khoản thu cho công ty, người trồng cà phê chẳng còn chút lãi nào.
Tạo động lực cho doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp

Vừa qua, Bộ NN&PTNT đã có quyết định về việc cắt bỏ 31 loại phí và lệ phí trong chăn nuôi và kiểm dịch thú y. Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát đã quyết liệt chỉ đạo các đơn vị trực thuộc đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính để giảm phiền hà và giảm chi phí cho nông dân cũng như doanh nghiệp. Bộ trưởng khẳng định, việc cắt bỏ các thủ tục và lệ phí không cần thiết để giảm khó khăn cho doanh nghiệp và người chăn nuôi trong bối cảnh hiện nay là cần thiết, nhằm tạo động lực cho doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, tăng sức cạnh tranh trước sức ép nông sản, thịt ngoại tràn vào nội địa. Một số loại phí sẽ được chuyển sang cơ chế giá, còn một số vẫn phải thực hiện. Những khâu, sản phẩm nào đã có phí rồi thì sẽ bỏ bớt lệ phí và cân đối ngân sách Nhà nước để làm bù cho nhiệm vụ đó, doanh nghiệp và người dân không phải nộp để giảm bớt giá thành chăn nuôi. Tuy nhiên, sau khi rà soát thì hiện nay lĩnh vực nông nghiệp vẫn còn tới 90 khoản lệ phí và 937 khoản phí, trong đó chỉ riêng lĩnh vực thú y vẫn còn 18 khoản lệ phí và 550 khoản phí. Sau khi Luật Phí và lệ phí được Quốc hội xem xét vào cuối năm nay, nhiều khả năng sẽ tiếp tục cắt giảm bớt các khoản phí, lệ phí trong nông nghiệp.

Ông Phạm Tất Thắng – chuyên viên cao cấp Bộ Công Thương cũng cho rằng, để tăng sức cạnh tranh cho nông sản trong nước, nhất thiết phải đưa được doanh nghiệp cùng vào cuộc với người nông dân. Do vậy, cần tạo điều kiện để doanh nghiệp tăng đầu tư vào nông nghiệp. Hiện nay, chúng ta đã tháo gỡ được một số khó khăn, bất hợp lý trong tiến trình phát triển. Nếu tiếp tục điều chỉnh các loại phí, giá cả vật tư nông nghiệp, tăng thêm thu nhập cho nông dân… chắc chắn bộ mặt nông thôn, miền núi sẽ có nhiều đổi thay.

MUA GÌ


Trà Vinh: Giá dừa khô tăng mạnh

Khoảng nửa tháng nay, giá dừa khô trên địa bàn tỉnh Trà Vinh liên tục tăng, thị trường trở nên sôi động, nhiều thương lái không ngại khó khăn len lỏi tận vùng nông thôn tìm mua dừa. Dừa khô bán xô tại vườn do thương lái tự hái hiện có giá từ 55.000 - 60.000 đồng/chục (12 quả). Nguyên nhân giá dừa tăng là do nhu cầu nhập quả dừa từ Việt Nam ở các nước Trung Quốc, Thái Lan và Campuchia hiện khá lớn. Hơn nữa, do giá dừa có lúc xuống quá thấp lại kéo dài, nhiều nhà vườn hạn chế đầu tư thâm canh cây dừa nên năng suất đạt thấp. Ngoài ra, còn có một số nhà vườn “nóng vội” phá bỏ diện tích dừa để trồng cây khác, dẫn đến diện tích dừa bị thu hẹp, sản lượng giảm… Trong khi đó, dừa là loại cây trồng lâu năm, kể từ trồng đến cho quả đợt đầu cần khoảng 4 - 5 năm.

Theo dự báo, từ nay đến Tết Nguyên đán năm 2016, giá dừa khô sẽ còn tiếp tục tăng do nhu cầu cần nguyên liệu sản xuất bánh kẹo và các sản phẩm xuất khẩu cho thị trường trong những tháng cuối năm.

Đồng Tháp: Quýt đường, cam nghịch vụ giảm giá

Hiện nay, nhiều nhà vườn Lai Vung đang thu hoạch rộ quýt đường, cam mùa nghịch, đây là kết quả ứng dụng kỹ thuật rải vụ của nhà vườn, nhằm cho thu nhập thường xuyên trong năm, đồng thời cũng làm giảm áp lực thu hoạch chính vụ có thể dội chợ, giảm giá. Tuy nhiên, do vài năm gần đây, nhiều nhà vườn áp dụng hình thức này, nên “cung lại vượt cầu”. Giá quýt đường từ 28.000 - 32.000 đồng/kg, giảm 18.000 đồng/kg, giá cam dây bán tại vườn khoảng 10.000 đồng/kg, giảm khoảng 10.000 đồng/kg. Riêng cam xoàn giá tiêu thụ khá hơn 27.000 đồng/kg. Thương lái cho biết, quýt đường, cam là loại trái cây được người tiêu dùng ưa chuộng, tuy nhiên, gần đây ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh miền Đông Nam bộ một số loại trái cây vào mùa thu hoạch rộ đang đổ về các chợ đầu mối TP. Hồ Chí Minh nên tiêu thụ chậm, giá giảm.

Khánh Hòa: Ngư dân trúng đậm cá cơm

Thời gian gần đây, ngư dân các tỉnh Nam Trung bộ liên tục trúng đậm cá cơm, 1 tàu cá thu về hàng chục triệu đồng mỗi đêm. Tại khu vực cửa Bé, xã Phước Đồng, TP. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, giá cá cơm bán tại cảng Hòn Rớ cho thương lái dao động từ 10.000 - 15.000 đồng/kg. Nếu lượng cá ổn định, mỗi ngư dân có thể kiếm được 10 - 15 triệu đồng/tháng. Thời điểm này đang là cao điểm của mùa đánh bắt cá cơm, sẽ kéo dài đến hết tháng 10. Lượng cá đánh bắt bán cho các đầu nậu ở Khánh Hòa chủ yếu từ các tỉnh bạn như Phú Yên, Ninh Thuận, Bình Thuận về. Cá cơm sau khi thu mua được phơi khô hoặc bán cho các cơ sở, nhà máy làm nước mắm.

Sóc Trăng: Trồng ổi lãi lớn

Hiện nay, nhà vườn trồng ổi ở Sóc Trăng chủ yếu tập trung tại huyện Kế Sách đang tích cực thâm canh, chăm sóc cây ổi để đạt năng suất và chất lượng cao vì giá ổi đang hấp dẫn, nhà vườn có lời khá. Tại ấp Ninh Thới, xã Thới An Hội, huyện Kế Sách, giá ổi bán tại vườn hiện ở mức 6.000 đồng/kg. Với giá này, người trồng ổi thu được lợi nhuận 3.000 đồng/kg. Đối với vườn ổi từ 2 năm tuổi trở lên, mỗi tháng cho thu hoạch 3 lần, năng suất đạt từ 650 – 800 kg/1.000 m2, lấy công làm lời thì lợi nhuận từ 1,9 - 2,4 triệu đồng/1.000 m2/tháng. Nhìn lại 6 tháng đầu năm 2015, giá ổi xuống thấp, có thời điểm giá bán tại vườn dưới 1.000 đồng/kg khiến nhà vườn trồng ổi gặp nhiều khó khăn. Ngành nông nghiệp khuyến cáo nông dân trồng ổi “tái cơ cấu” bằng cách giảm diện tích ổi trồng xen, tỉa bớt trái, cắt nhánh, đôn cành (giảm ra hoa, đậu trái) để điều chỉnh sản lượng phù hợp, tránh dư thừa; tăng chất lượng ổi thông qua việc giảm lượng phân đạm (không chạy theo năng suất), bón bổ sung phân kali và các phân trung vi lượng; đồng thời tích cực mở rộng thị trường tiêu thụ. Nhờ áp dụng đồng bộ các giải pháp vừa nêu, cây ổi Sóc Trăng không phải áp dụng biện pháp “giải cứu” mà giá ổi còn tăng lên như hiện nay.

BÁN GÌ


Đồng Nai: Bưởi trung thu bán chạy

Tại các chợ đầu mối trên thị trường Đồng Nai, giá bưởi đang có xu hướng tăng. Nguyên nhân do vào dịp tết trung thu, nhu cầu mua bưởi làm quà biếu tăng cao khiến bưởi sốt giá. Tăng giá cao nhất là bưởi đường lá cam vì nhiều nhà vườn ở Tân Triều (huyện Vĩnh Cửu) tập trung cho vụ bưởi tết nên sản lượng cung cấp ra thị trường mùa trung thu có hạn. Theo đó, bưởi đường lá cam loại 1 đang đứng ở mức 700.000 đồng/chục, tăng 200.000 đồng/chục so với tháng trước. Bưởi da xanh ruột hồng đang ở mức 48.000 – 50.000 đồng/kg, tăng khoảng 10.000 đồng/kg so với tháng trước.

Hải Dương: Đưa hành, tỏi xuất ngoại

Nhiều năm qua, hành, tỏi đã trở thành cây trồng chủ lực của người dân các huyện Kinh Môn, Nam Sách (Hải Dương) trong vụ đông. Vì vậy, đưa hành, tỏi xuất ngoại là hướng đi mới giúp nông dân nơi đây tiếp tục gắn bó với cây hành và phấn đấu làm giàu từ cây trồng này. Trước đây, người nông dân chỉ biết đưa hàng sang thị trường Trung Quốc. Tuy nhiên, gần đây, do đồng nhân dân tệ bị phá giá, việc xuất khẩu hành, tỏi sang Trung Quốc khó khăn. Sản lượng hành, tỏi tiêu thụ trong nước cũng giảm sút. Do vậy, người nông dân đã tìm cơ hội để xuất khẩu hành, tỏi sang các nước khác như Mỹ, Nhật, Indonesia, Hàn Quốc... Vài tháng nữa, vào đợt cao điểm sơ chế hành, tỏi xuất khẩu đi Mỹ, không khí sẽ sôi động hơn. Trước đây, hành, tỏi mang sơ chế chỉ để bán trong nước với giá từ 30.000 - 35.000 đồng/kg nhưng nếu xuất bán sang Mỹ thì giá cao gấp 10 lần.

Đồng Tháp: Cam xoàn đầu mùa được giá

Hiện cam xoàn đầu mùa thu hoạch sớm và bán với giá cao 40.000 - 45.000 đồng/kg, cao hơn 5.000 - 10.000 đồng/kg so với cùng kỳ năm 2014. Với năng suất bình quân đạt 40 - 50 tấn/héc-ta, trừ chi phí nhà vườn lãi hơn 700 triệu đồng/héc-ta cam xoàn. So với năm 2014, thời tiết năm nay khá thuận lợi cho cây cam xoàn phát triển. Đa số nhà vườn đều được mùa. Trung bình 1 công cam (1.000 m2) đạt sản lượng 3 - 5 tấn quả. Với giá bán hiện nay, cây cam xoàn cho lãi hơn 70 triệu đồng/công. Thời gian này cũng là giai đoạn đầu mùa nên sản lượng ở một số nơi còn thấp, trong khi nhu cầu của thị trường khá lớn, nên cam xoàn được giá. Hiện ngành nông nghiệp huyện Lai Vung và Lấp Vò đang khuyến khích bà con chuyển đổi cây trồng kém hiệu quả sang trồng cam xoàn. Đồng thời, định hướng cho bà con đăng ký thương hiệu, liên kết với thương lái tiêu thụ, đưa cây cam xoàn phát triển bền vững bên bờ sông Tiền, sông Hậu.

Đồng bằng sông Cửu Long: Giá lúa tiếp tục giảm sâu

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đồng bằng sông Cửu Long - vựa lúa lớn nhất Việt Nam - có thể sẽ phải chịu thiệt hại nặng nề nhất trong mùa lũ này. Thời tiết cực đoan không những ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lúa của người dân, mà còn tác động đến thị trường. Do mưa kéo dài ngày, ruộng đồng ngập nước, thương lái không thu mua lúa khiến giá lúa tiếp tục giảm sâu. Vì lúa ngập sâu nên máy gặt đập liên hợp không thể nào vào thu hoạch được, còn thuê mướn nhân công cắt tay thì rất khó. Hiện nay, lực lượng này tại địa phương gần như không còn mà nếu có còn họ cũng ăn với giá khá cao, trung bình từ 500.000 - 700.000 đồng/công. Lại thêm chuyện cắt tay sẽ không có máy suốt, bởi từ khi có máy gặt đập liên hợp đến nay loại máy này rất khó tìm. Nhiều nông dân lo ngại sẽ phải bán lỗ số thóc thu hoạch từ vụ này bởi họ không có máy sấy để sấy khô thóc. Ngoài ra, vì bị ngập úng trong nước nên chất lượng thóc sẽ giảm xuống, dẫn tới giá bán giảm.

Năm nay, nhờ chủ động trong sản xuất cùng với việc sử dụng giống lúa chất lượng nên năng suất lúa đạt khá cao, có nhiều hộ năng suất đạt đến 5,5 tấn/héc-ta. Tuy nhiên, thời tiết ảnh hưởng liên tục trong những ngày qua đã khiến bà con nông dân lo lắng.

LƯU Ý CẢNH BÁO


Biến đổi khí hậu: Bà con nông dân thất thu

Trong 5 năm gần đây, các tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng liên tục phải đối phó với hạn hán gay gắt do mực nước sông Hồng xuống thấp. Tại đồng bằng sông Cửu Long, nhiều cánh đồng lúa bị mất trắng, nhiều vùng hoa màu, cây trồng chuyên canh bị ảnh hưởng nghiêm trọng do sự biến đổi bất thường của thời tiết, mưa lũ, nước biển bị xâm thực, nồng độ phèn trong đất ngày một gia tăng... Trong đó, bà con nông dân chính là đối tượng chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu nhiều nhất.

Cà phê chín sớm, giá thấp, doanh nghiệp không thu mua

Biến đổi khí hậu, nắng hạn bất thường nên trong niên vụ cà phê 2014 - 2015, nông dân trên địa bàn huyện Hướng Hóa (Quảng Trị) gặp rất nhiều khó khăn trong việc phát triển các loại cây trồng. Đặc biệt, cây cà phê năm nay chín sớm hơn so với mọi năm, khiến người nông dân cũng như doanh nghiệp thu mua cà phê trên địa bàn thiếu chủ động trong thu hoạch và tiêu thụ sản phẩm.

Hiện nay, nhiều hộ gia đình ở huyện Hướng Hóa đã bước vào vụ thu hoạch cà phê, trong khi mọi năm phải gần một tháng nữa mới đến kỳ hái quả. Cà phê chín sớm buộc người dân phải tiến hành thu hoạch mặc dù giá đang giảm mạnh, doanh nghiệp không mặn mà thu mua do các nhà máy chế biến cà phê trên địa bàn vẫn chưa mở cửa. Vì vậy, bà con phải “bán đổ bán tháo” cho các tư thương nhỏ lẻ. Các tư thương này được thể càng ép giá bà con bởi chính bản thân họ cũng chỉ thu mua cà phê rồi phơi khô dự trữ, đợi giá cao hơn sẽ bán. Với mức giá thu mua thấp như hiện nay chỉ 3.000 đồng/kg quả tươi, nhiều vườn cà phê thu hoạch sớm đã lỗ từ 20 - 30 triệu đồng.

Ngoài nguyên nhân thu hoạch sớm, tình trạng chất lượng hạt cà phê kém do hạn hán vào đầu vụ ra hoa cũng là lý do khiến doanh nghiệp không thu mua cà phê của bà con. Tình trạng hạt lép, hạt không nhân chiếm tỷ lệ cao khiến cà phê không thể xuất khẩu ra nước ngoài được. Trong khi đó, vốn liếng của người nông dân đã cạn kiệt, một số hộ không thể trả lãi vay ngân hàng.... Tuy nhiên, do không dễ thay thế bằng loại cây trồng khác nên người trồng cà phê ở huyện miền núi này chỉ biết nhìn vườn cây đã thấm bao mồ hôi, công sức… chết dần, chết mòn.
Năng suất lúa giảm do nhiễm phèn, ngập mặn

Hiện nay, khu vực đồng bằng sông Cửu Long - vựa lúa lớn nhất cả nước đang bước vào vụ thu hoạch mới. Khác với những vụ thu hoạch trước, vụ hè thu, nông dân luôn phải sống trong âu lo và bất an bởi đây cũng chính là mùa nước nổi, mùa lũ lụt bao trùm cả một vùng rộng lớn này. Theo nhiều nông dân ở khu vực Đồng Tháp Mười, một nơi được coi là rốn lũ mùa nước nổi, mặc dù biết năm nào nước lũ cũng tràn về nhưng nông dân ở đây không có cách gì ứng phó hiệu quả bởi nó không tuân theo bất cứ quy luật nào và họ thường rơi vào thế bị động. Đặc biệt, tình trạng nhiễm phèn, ngập mặn trên diện rộng đã ảnh hưởng lớn tới sản xuất cây trồng, khiến bà con nông dân rơi vào cảnh trắng tay. Tại tỉnh Kiên Giang, tình trạng nhiễm phèn, ngập mặn trên diện rộng ở một số huyện khiến năng suất lúa giảm rõ rệt. Tại An Giang, mưa to kéo dài đã gây ngập úng và ảnh hưởng đến việc thu hoạch lúa vụ hè thu của nông dân các xã Phú Lộc, Vĩnh Xương, Tân Thạnh, Vĩnh Hòa… Lượng mưa nhiều, thu hoạch chạy lũ không kịp cũng đã ảnh hưởng lớn đến năng suất. Hiện có khoảng 3.000 héc-ta lúa ở Đồng Tháp và 10.000 héc-ta lúa ở An Giang đang bị ngập úng trong nước. Phần lớn diện tích lúa này đều đã đến kỳ thu hoạch nên người nông dân có thể sẽ chịu thiệt hại nặng nề. Không chỉ người trồng lúa mà hầu hết nông dân canh tác các loại hoa màu, cây ăn trái cũng như nuôi trồng thủy sản đều bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi bất thường của thời tiết ở khu vực này.

Theo dự báo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năng suất lúa tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long có thể sẽ giảm khoảng 10 - 20% do mưa lớn kéo dài. Hiện chính quyền địa phương đang nỗ lực giúp người nông dân tháo nước lũ bằng máy bơm để bà con có thể nhanh chóng thu hoạch lúa một khi thời tiết cải thiện hơn. Bộ cũng dự kiến cho mở các cửa cống xả tại một số khu vực để đẩy nhanh tốc độ thoát nước.

NHẬN ĐỊNH THỊ TRƯỜNG


Bảo Lâm (Lâm Đồng): Diện tích trồng tiêu tăng mạnh bất thường

Chỉ tính trong 6 tháng đầu năm 2015, theo thống kê chưa đầy đủ, nông dân xã Lộc Phú (huyện Bảo Lâm) đã trồng mới 15 héc-ta tiêu. Đối với một xã xác định cây trồng chủ lực là chè và cà phê thì việc phát triển diện tích tiêu nhanh chỉ trong một thời gian ngắn là điều khá bất thường. Bất thường ở chỗ, theo chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của xã Lộc Phú trong năm 2015, diện tích tiêu trồng mới chỉ là 2 héc-ta. So với chỉ tiêu này, diện tích tiêu mà người dân tự trồng đã gấp 7,5 lần. Theo thống kê, những xã trên địa bàn huyện Bảo Lâm phát triển diện tích tiêu nhiều nhất trong thời gian gần đây là Lộc An, Lộc Ngãi, Lộc Đức, Lộc Phú…

Tiêu là loại cây không được huyện Bảo Lâm quy hoạch phát triển nhưng bà con vẫn đua nhau trồng tự phát xen trong vườn cà phê vì ham giá cao. Kết quả điều tra vào quý 1/2015 cho thấy diện tích tiêu trồng mới tại Bảo Lâm là 154 héc-ta. Đến nay, diện tích này có thể đã đạt trên dưới 200 héc-ta. Điều đáng lo ngại là người dân hiện đang trồng ồ ạt, không có định hướng, nguồn cây giống không đảm bảo chất lượng nên tiềm ẩn rủi ro rất lớn.

Đồng Nai: Cá nước ngọt sốt giá

Tại chợ đầu mối Hóa An (thành phố Biên Hòa, Đồng Nai), hiện giá các loại cá nước ngọt đang biến động mạnh. Tăng cao nhất là cá lóc với giá sỉ dao động từ 45.000 – 55.000 đồng/kg, tăng khoảng 10.000 đồng/kg so với đầu tháng 9. Các loại cá diêu hồng, rô phi, cá chép… cũng tăng từ 2.000 – 3.000 đồng/kg. Nguyên nhân do thời gian qua, các vùng nuôi cá nước ngọt của Đồng Nai, như: xã Sông Trầu, xã Bắc Sơn (huyện Trảng Bom), xã Tân An, Vĩnh Tân (huyện Vĩnh Cửu)... người nuôi cá bị thiệt hại nặng vì liên tiếp bị ngập lụt, làm thu hẹp nguồn cung.

Đồng bằng sông Cửu Long: Cần thay đổi lớn về tư duy tiêu thụ nông sản

Hiếm năm nào giá nông sản ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đồng loạt rớt giá mạnh như năm nay.

Chanh, ổi, khoai lang,... bán với giá “gần như cho” từ đầu năm đến nay. Nhiều nông sản giá vài chục ngàn đồng một ký trước đó đã rơi xuống còn vài trăm đồng, khiến nông dân lỗ nặng. Tại huyện Bình Tân (Vĩnh Long), nhiều hộ trồng khoai lang đã lâm vào cảnh nợ nần, hết vốn đầu tư vụ mới vì khoai lang giảm chỉ còn 150.000 đồng/tạ; bà con đành bỏ ngoài đồng vì tiền công thu hoạch còn cao hơn giá khoai. Không chỉ khoai lang, rau củ các loại cũng sụt giảm còn nửa giá so năm trước nhưng tiêu thụ cũng hết sức khó khăn. Tại Đồng Tháp, Tiền Giang, giá ổi vụ này chỉ còn 500 - 600 đồng/kg so với 9.000 - 10.000 đồng/kg những năm trước.

Thực tế tại ĐBSCL cũng là hạn chế của nông nghiệp Việt Nam nhiều năm qua. Đó là cứ “chạy đua” sản xuất những gì mình có, đến khi thu hoạch thì khách hàng không mua, không cần, dẫn tới thiệt hại. So với nhiều vùng trên cả nước, ĐBSCL có nhiều lợi thế về truyền thống, kinh nghiệm canh tác và cũng được điều kiện tự nhiên ưu đãi nên những cảnh báo chưa được quan tâm đúng mức.

Trong bối cảnh cạnh tranh trên thị trường nông sản ngày càng gay gắt, đòi hỏi cần có sự thay đổi lớn về tư duy sản xuất, nuôi trồng theo kiểu "năm nay khó tạm thời, ráng đến năm sau sẽ khá hơn". Hiện, nhiều tỉnh thành vùng ĐBSCL đang bước đầu hình thành chuỗi liên kết tiêu thụ nông sản. Trong đó, đặc biệt vào việc xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường, chủ động về đầu ra. Tuy nhiên, để có sự thay đổi toàn diện, đòi hỏi sự kiên nhẫn của các cấp chính quyền địa phương và các hộ nông dân. Trước hết, bà con cũng cần chủ động liên kết lại thành lập hợp tác xã và kết nối với doanh nghiệp để mời gọi đầu tư, bao tiêu sản phẩm đầu ra. Khi đã có sản phẩm chuẩn thì việc làm nhãn mác, thương hiệu và tiêu thụ cũng sẽ dễ dàng và chủ động hơn.

CHUYỂN ĐỘNG THỊ TRƯỜNG


Thị trường nông thôn, miền núi: Chưa quan tâm đến “nhận diện” thương hiệu Việt


Thị trường nông thôn, miền núi tiêu thụ một lượng lớn hàng hóa nhưng đang tồn tại nghịch lý: Hàng tốt nhất đều dành cho thị trường thành thị còn hàng lỗi, hàng xấu thì đưa về nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Trong khi đó, người dân nông thôn, miền núi mới chỉ quan tâm đến sản phẩm đó có phù hợp với túi tiền của mình hay không mà chưa quan tâm tới sản phẩm có thương hiệu hay không, chất lượng như thế nào!? Bởi vậy, đã dẫn đến tình trạng hàng Việt không có chỗ đứng còn hàng giả, hàng kém chất lượng mặc sức tung hoành.



Bà con thiếu thông tin



Theo Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công Thương), lợi dụng sự thiếu thông tin về sản phẩm của bà con, nhiều tư thương đã bất chấp thủ đoạn, tìm mọi cách để đưa hàng giả, hàng kém chất lượng về nông thôn. Từ những mặt hàng có giá trị thấp như bánh kẹo, nước giải khát, may mặc đến hàng có giá trị cao như đồ gia dụng, phụ tùng xe máy giả, nhái bày bán ở các chợ huyện, chợ xã. Đặc biệt, những sản phẩm phục vụ sản xuất như thức ăn chăn nuôi, phân bón, thuốc trừ sâu... có thể tìm thấy hàng giả, hàng kém chất lượng khá nhiều, gây thiệt hại lớn cho người tiêu dùng. Ông Hồ Tất Thắng, Phó Chủ tịch Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam nhận định, người tiêu dùng nông thôn luôn, miền núi là người thiệt thòi nhất. Họ không được quyền định đoạt giá cả và là người gánh chịu tất cả mọi rủi ro nếu gặp hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. “Thực tế người nông dân đang tiêu thụ phần lớn là hàng giả, hàng kém chất lượng. Nhưng vì không có thông tin nên đã bị lừa khi mua hàng, do đó họ là người phải “gánh đòn” bởi sự thiếu kiểm soát chất lượng trên thị trường”, ông Thắng chia sẻ.



Lý giải vì sao lâu nay thị trường nông thôn, miền núi vẫn bị DN bỏ ngỏ, nhiều DN cho rằng, thị trường này tràn ngập của hàng gia dụng giá thấp, “nhái”, “chất lượng kém” nhập chủ yếu từ Trung Quốc mà chưa có giải pháp nào khắc phục. Trong khi đó khả năng nhận diện thương hiệu của bà con còn hạn chế, thậm chí không quan tâm tới thương hiệu mà chỉ quan tâm tới giá tiền… Vì vậy, DN rất khó tiếp cận thị trường, nhất là DN vừa và nhỏ thiếu hệ thống phân phối không thể cạnh tranh trong tình hình rất hỗn loạn này. Hơn nữa chi phí cho hoạt động phân phối tăng rất cao nhất là khu vực vùng cao, ước tính gấp đôi mức bình thường ở đô thị mà khiến DN không thể bù lỗ nổi.
Phải để người dân nhận biết được hàng Việt



Ông Thắng cho rằng để người dân chú ý, tiếp cận hàng hóa sản xuất trong nước thì khi tổ chức đưa hàng Việt về nông thôn phải lựa chọn những mặt hàng phù hợp, giá phải chăng, kèm các chương trình khuyến mãi, hậu mãi hấp dẫn, những quảng cáo thực tế và ngôn ngữ dễ hiểu. “Qua những phiên chợ đưa hàng Việt về nông thôn thấy sức mua và nhu cầu của người dân nông thôn là rất lớn, nhiều tiềm năng; người tiêu dùng nông thôn rất “khát” hàng sản xuất trong nước có chất lượng, giá cả phù hợp, nhưng chưa có nhiều sự lựa chọn vì ít hàng hóa cung ứng” - ông Thắng khẳng định.



Thứ trưởng Bộ Công Thương – Hồ Thị Kim Thoa cho biết, Bộ Công Thương đang tổ chức Chương trình "Tuần nhận diện hàng Việt Nam" nằm trong khuôn khổ Đề án “Phát triển thị trường trong nước gắn với Cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam giai đoạn 2014 - 2020”. Mục tiêu nhằm tuyên truyền cho người tiêu dùng hiểu biết hơn về sản phẩm của Việt Nam, đồng thời giúp các DN trong nước có thể đưa những sản phẩm chất lượng, uy tín của mình đến tay người tiêu dùng, góp phần vào việc đẩy mạnh tiêu thụ và nâng cao năng lực sản xuất.



Tuần nhận diện hàng Việt Nam - Tự hào hàng Việt Nam được coi là một giải pháp hỗ trợ thực hiện thành công mục tiêu đến năm 2015 sẽ có 90% người tiêu dùng và DN Việt Nam biết đến hàng Việt. Trong đó, mục tiêu đặt ra là đến năm 2020, thị phần hàng Việt Nam có thế mạnh tại các kênh phân phối truyền thống ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa sẽ tăng lên trên 70%.



Box: Thứ trưởng Bộ Công Thương - Hồ Thị Kim Thoa: Chương trình Tuần nhận diện hàng Việt Nam nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về thương mại trên địa bàn toàn quốc, tạo sự chuyển biến căn bản và thực chất trong công tác quản lý chất lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường, bảo vệ người tiêu dùng và bảo vệ người sản xuất kinh doanh hàng Việt Nam chân chính.

BÀ CON CẦN BIẾT


Đảm bảo thu hoạch trong mùa mưa bão


Cục Trồng trọt vừa có Công văn gửi Sở NN&PTNT các tỉnh miền Bắc về việc chỉ đạo thu hoạch lúa hè thu, bảo vệ lúa mùa. Đồng thời có chỉ đạo quyết liệt sản xuất vụ đông 2015.



Theo dự báo của Trung tâm Dự báo Khí tượng thủy văn TƯ, tháng 9 ở các tỉnh phía Bắc vẫn đang là thời kỳ mùa mưa bão và có khả năng xảy ra từ 3 - 4 đợt mưa vừa, mưa to; các tỉnh Bắc Trung bộ vẫn có thể xảy ra từ 1 – 2 đợt nắng nóng, bão muộn... Do vậy, diễn biến sâu bệnh hại gia tăng, nhất là sâu đục thân cuối vụ, rầy nâu, rầy lưng trắng đang xuất hiện các ổ với mật độ cao.



Để đảm bảo chắc chắn sản xuất lúa vụ hè thu, mùa và sản xuất vụ đông thắng lợi, Cục Trồng trọt đề nghị Sở NN&PTNT các tỉnh, thành phía Bắc tập trung chỉ đạo một số việc sau:
Thứ nhất, tuyên truyền, vận động nông dân khẩn trương thu hoạch nhanh, gọn diện tích lúa hè thu và lúa mùa sớm đã chín với phương châm là “xanh nhà hơn già đồng”, "sáng lúa chiều ngô" để giải phóng đất gieo trồng cây vụ đông ưa ấm như ngô, đậu tương, ớt và dưa, bí các loại. Nhóm cây ưa ấm với nhiều cây có giá trị kinh tế cao cần gieo cấy càng sớm càng tốt. Với các trà lúa chuẩn bị thu hoạch cần tính toán thời gian để làm bầu với nhóm cây này cho phù hợp và khớp với thời gian thu hoạch lúa, tránh để cây con quá ngày trong bầu, khi trồng phục hồi chậm và bị còi cọc. Sau trồng nếu thời tiết thuận lợi, sau 3 - 4 ngày cây bén rễ cần tưới thúc ngay bằng phân NPK + nước phân chuồng loãng để thúc cây ra rễ nhanh. Với đậu tương gieo vãi không làm đất cần tuân thủ các hướng dẫn của cán bộ khuyến nông cơ sở.
Thứ hai, tranh thủ thời tiết thuận lợi, khơi thông, vét mương máng và tạo rãnh thoát nước kết hợp rãnh tưới quanh ruộng và bề mặt ruộng đề phòng mưa lớn gây úng cục bộ, tháo cạn nước mặt ruộng, giữ nước nông hệ thống kênh mương vùng lúa đã chín và sắp chín để tạo thuận lợi cho trồng cây vụ đông.



Thứ ba, bà con cần chú ý theo dõi diễn biến sâu bệnh hại nhất là sâu đục thân 2 chấm, rầy các loại, nhện đỏ, khô vằn gây hại trên lúa mùa trổ muộn. Chỉ đạo phòng trừ kịp thời bằng các loại thuốc đặc hiệu có trong danh mục theo quy định.

Thứ tư, tiếp tục rà soát và điều chỉnh kế hoạch sản xuất cây vụ đông, tỷ lệ cây ưa ấm và ưa lạnh cho phù hợp với quỹ đất, dựa trên lợi thế và truyền thống của địa phương. Đồng thời, chuẩn bị phân bón, giống cây trồng các loại. Tìm kiếm, vận động các doanh nghiệp ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm cho nông dân. Có cơ chế chính sách hỗ trợ giống, tổ chức sản xuất theo hình thức cho thuê, mượn ruộng để các hộ gia đình có điều kiện về nhân lực, đầu tư làm diện tích lớn để gia tăng giá trị và hiệu quả. Vận động cả hệ thống chính trị vào cuộc, chỉ đạo quyết liệt để vụ đông thực sự là vụ sản xuất chính mang lại thu nhập cao cho nông dân.



Thứ năm, bố trí nguồn lực để tăng cường công tác tập huấn chuyển giao tiến bộ kỹ thuật gieo trồng cây vụ đông, các giải pháp làm đất tối thiểu, không làm đất với đậu tương, khoai tây, bí xanh, dưa chuột không giàn… Công khai, minh bạch cơ chế chính sách hỗ trợ của địa phương trên các kênh thông tin truyền thông đại chúng để người dân biết và áp dụng.



Thứ sáu, phân công lãnh đạo, cán bộ khuyến nông bám sát cơ sở cùng nông dân thường xuyên thăm đồng, phát hiện và phòng trừ kịp thời sâu, bệnh và chuột hại cây trồng, hướng dẫn, chỉ đạo kỹ thuật cũng như xử lý các tình huống phát sinh trong quá trình gieo trồng.
Thứ bảy, chỉ đạo các đơn vị chuyên ngành, thanh tra Sở phối hợp với lực lượng quản lý thị trường, cảnh sát kinh tế, môi trường tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp, cơ sở đại lý hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh vật tư nông nghiệp, nhất là giống và phân bón hạn chế tối đa hàng kém chất lượng, hàng nhái, hàng giả.



Thứ tám, thường xuyên theo dõi diễn biến thời tiết để chủ động và sẵn sàng các phương án phòng chống thiên tai, dịch hại kịp thời và báo cáo tình hình sản xuất về Bộ NN&PTNT để theo dõi, chỉ đạo chung.

HÀNG VIỆT


Niềm tin vào trái cây nội ngày càng tăng

Hiện nay, nhiều người tiêu dùng đã tin tưởng chọn mua các loại trái cây Việt Nam; trong đó có các loại quả xuất xứ từ các tỉnh vùng cao như: Cao Bằng, Sơn La, Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang...

Đồng bào đã phát triển các loại trái cây hàng hóa

Nhờ thiên nhiên ưu đãi, nên bốn mùa, ở vùng nào của Việt Nam cũng có các loại trái cây thơm ngon. Hết mùa vải, mít, nhãn lại đến mùa na, táo, bưởi, hồng, thanh long, chôm chôm, bơ, xoài… Đặc biệt với vùng DTTS và miền núi; mấy năm trở lại đây, đồng bào ở nhiều địa phương đã bắt đầu phát triển các loại trái cây hàng hóa như: Vải thiều Lục Ngạn (Bắc Giang), na dai Đồng Bành (Lạng Sơn); mận Mộc Châu, xoài Yên Châu (Sơn La); táo mèo Yên Bái; hồng giòn Bắc Kạn; lê Bảo Lạc (Cao Bằng)…

Vì chất lượng thơm ngon, lại được trồng trên những vùng đất có khí hậu mát mẻ, ít phải sử dụng đến thuốc bảo vệ thực vật nên các loại trái cây này được người tiêu dùng ở thành thị rất tin dùng. Điều an tâm nhất đó là hoa quả được thu hái xong là vận chuyển về bán luôn, không bị ngâm tẩm hay phun hóa chất bảo quản. Ngoài ra, có nhiều cơ quan, nhiều người còn chung nhau đặt mua trái cây tận vườn, để ăn tâm về nguồn gốc, xuất xứ.

Nhờ có những khách hàng đặt trọn niềm tin vào trái cây Việt như vậy, nên nhiều hộ gia đình ở các vùng DTTS đã có đầu ra ổn định cho các loại trái cây trồng được. Không ít hộ đã có thu nhập từ hàng trăm triệu đồng, thậm chí cả tỷ đồng mỗi năm từ trồng cây ăn quả. Trường hợp ông Đinh Công Định, dân tộc Mường ở thôn 3, xã Ba Trại, huyện Ba Vì, Hà Nội là một ví dụ. Với hơn 1.000m2 đất trồng hơn 100 gốc ổi Đài Loan, mỗi năm gia đình ông thu được 3 - 4 tấn quả ổi. Ổi của nhà ông Định ít hạt, ngọt, giòn nên rất đắt hàng.

Thực tế, nhờ “tiếng lành đồn xa”, nhiều loại trái cây chưa đến ngày thu hoạch, đã có người đặt mua cả vườn với giá cao. Ví dụ như trái quýt Trà Lĩnh (huyện Trà Lĩnh, Cao Bằng) với vị ngọt và mùi thơm rất riêng, vào vụ, giá mỗi kg quýt tại vườn lên tới 40.000 đến 50.000 đồng/kg; trái mận Bắc Hà (huyện Bắc Hà, Lào Cai) loại ngon, giá bán có thể lên tới 70.000 đồng/kg…

Giữ niềm tin cho trái cây Việt

Cũng chính vì được người tiêu dùng tin dùng nên lợi dụng niềm tin này, nhiều cửa hàng đã trà trộn giữa trái cây Việt Nam với những loại trái cây có xuất xứ từ Trung Quốc, đặc biệt là những địa phương có đông lượng khách du lịch qua lại.

Tình trạng này dễ gặp ở Sa Pa (Lào Cai). Mặc dù mận, đào Sa Pa chưa đến mùa nhưng người bán hàng sẵn sàng mua mận, đào từ Trung Quốc về và nói dối du khách là mận, đào Sa Pa. Hay như ở Mộc Châu (Sơn La), tại rất nhiều điểm dừng chân của xe khách; đào, mận, xoài được bán gần như quanh năm, trong khi đó, chính mùa thu hoạch mận – đào của Mộc Châu chỉ khoảng hơn 1 tháng. Hỏi ra mới biết, mận, đào có mã to, đẹp là hàng xuất xứ từ Trung Quốc. Loại trái cây này trông đẹp mắt nhưng ăn chua và nhạt; không thơm và đậm đà như trái cây của Mộc Châu. Ngoài mận, đào; lê, quýt, cam, táo mèo Trung Quốc… cũng là những loại trái cây thường xuyên được người bán mượn tiếng trái cây Việt Nam để tiêu thụ.

Để trái cây Việt Nam có thể tiêu thụ rộng, có thị trường ổn định với giá trị cao, bên cạnh việc xây dựng mô hình thâm canh, áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất, canh tác và hình thành vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá đối với mỗi loại cây; Sở Khoa học và Công nghệ các tỉnh có những loại cây ăn quả thế mạnh cần tích cực triển khai thực hiện dự án xây dựng, quản lý và phát triển thương hiệu, nhãn hiệu tập thể cho sản phẩm cây ăn quả. Bởi lẽ, với chất lượng đã được khẳng định, việc có thương hiệu, nhãn hiệu tập thể sẽ là công cụ pháp lý hỗ trợ cho nông dân vùng trồng cây ăn quả khẳng định danh tiếng, đồng thời người tiêu dùng cũng có thông tin về những dấu hiệu nhận biết riêng biệt để lựa chọn, tránh nhầm lẫn với sản phẩm trái cây cùng loại nhưng khác xuất xứ…

Nam Sơn (Báo Công Thương và Cổng Thông tin điện tử UBDT phối hợp thực hiện)